Bệnh giời leo do tác nhân gây bệnh là virus varicella zoster, vốn là virus gây bệnh thủy đậu vốn được mọi người thường nhắc đến (nổi bóng nước toàn thân kèm ngứa – đau khó chịu ở trẻ nhỏ).
Trong giai đoạn ủ bệnh sẽ có thể có những dấu chứng mơ hồ như mệt mỏi, đau nhức nhẹ cơ thể, đau đầu, mệt mỏi. Các dấu chứng này hầu như không giúp ích gì trong xác định chẩn đoán vì dễ lầm tưởng với các bệnh khác.
Đến giai đoạn toàn phát, bệnh giời leo đặc trưng bởi những triệu chứng
- Dị cảm vùng da bệnh: có thể có ngứa, cảm giác kiến bò, nóng rát, đau.
- Xuất hiện hồng ban tại da, sau đó xuất hiện bóng nước trong, lâu dần chuyển thành màu vàng đục, nếu bị vỡ bóng nước sẽ có chảy dịch trong – vàng. Trong thể bệnh nặng có thể có chảy máu trong bóng nước làm thành từng lớp mày màu đỏ trên da
- Phân bố tổn thương da đi theo vùng phân bố của thần kinh nên có dạng thành từng mảng dọc chỉ xuất hiện tại một bên cơ thể, không bao giờ vượt qua đường giữa.
Bệnh diễn tiến nhanh trong vòng 1 tuần, sau đó sẽ lui bệnh dần. Các tổn thương trên da sẽ biến mất sau khoảng 2-4 tuần tùy theo mức độ lan rộng tổn thương. Trong trường hợp bị nhiễm trùng da do không chăm sóc tốt, quá trình lành vết thương có thể kéo dài hơn.
Bản thân bệnh giời leo có thể lây truyền virus varicella zoster. Tuy nhiên do phần lớn người trưởng thành đã có miễn dịch chống lại virus nên không gây bệnh. Ngược lại, virus có thể lây và gây bệnh trẻ em, phụ nữ mang thai, người già yếu vốn có hệ thống miễn dịch bị suy yếu.
Sau khi hết, bệnh giời leo không để lại vết sẹo da trừ trường hợp có nhiễm trùng thứ phát. Tuy nhiên, vùng da bị bệnh có thể có những di chứng như vết thâm da (sẽ tự mất sau 1-2 tháng), cảm giác nóng rát, kim đâm (là tình trạng dị cảm sẽ phải cần điều trị hỗ trợ, thời gian điều trị đôi khi kéo dài đến 5-6 tháng). Đối với các thể bệnh giời leo vùng mặt (giời leo mắt, giời leo vùng tai) thì có thể gây ảnh hưởng đến các dây thần kinh vùng mặt gây mù mắt, loét giác mạc, mất khứu giác, giảm thính giác…
Việc điều trị tùy theo giai đoạn. Trong giai đoạn cấp, bác sĩ sẽ sử dụng thuốc kháng virus (không phải thuốc kháng sinh) và chăm sóc vết thương da để hạn chế sẹo và di chứng. Trong giai đoạn muộn, việc điều trị tập trung giải quyết biến chứng như viêm da, rối loạn cảm giác da. Việc sử dụng thuốc không đúng như kháng sinh, kháng viêm có corticoid đôi khi làm nặng tình trạng bệnh hơn. Điều này có thể hạn chế bằng việc khám bệnh để được chẩn đoán và cho toa thuốc chính xác.